Tình yêu là một hiện tượng đặc biệt và khá phức
tạp của cuộc sống con người, là đề tài nổi bật, hấp dẫn, không hề vơi
cạn của văn học nhân loại. Chính vì vậy trong văn chương, tình yêu là đề
tài liên tục thu hút sự chú ý của giới sáng tác, nghiên cứu, phê bình.
Khuôn mặt của tình yêu tuỳ vào quan điểm thẩm mỹ, văn hoá, xã hội của
từng thời kỳ, của từng tác giả mà có những dạng tồn tại khác nhau.
Tác phẩm Chí Phèo
của Nam Cao xưa và nay vẫn được xem là một truyện ngắn tiêu biểu, xuất
sắc của văn học sáng tác theo khuynh hướng hiện thực phê phán. Tác phẩm
được chú ý khai thác ở các khía cạnh tố cáo xã hội phi nhân tính, sự áp
bức của giai cấp thống trị, số phận con người bị tha hoá... nhiều hơn là
nhìn từ góc độ tình yêu.
Toàn
bộ nội dung, kết cấu tác phẩm gắn liền với cuộc đời của nhân vật chính
là Chí Phèo, có một chi tiết đáng lưu ý là: các biến cố làm nên những
đổi thay to lớn, những bước ngoặt trong cuộc đời Chí Phèo cũng như trong
kết cấu tác phẩm lại đến từ hình bóng những người đàn bà. Tuy nhiên có
bóng dáng đẩy Chí Phèo vào chốn tăm tối những cũng có gương mặt tuy xấu
xí nhưng lại đưa Chí Phèo ra nơi ánh sáng của cõi minh triết.
Cuộc đời Chí Phèo đột nhiên chuyển hướng do việc tiếp xúc miễn cưỡng với bà Ba Bá Kiến, một người “đàn bà phốp pháp, má hây hây”,
để từ một anh nông dân hiền lành chất phác trở thành một tên tù, một
tên lưu manh mất hết nhân tính, mất luôn cả ý thức về mình lẫn ý thức
làm người. Tuy nhiên, lần gặp gỡ với Thị Nở lại mang đến một hệ quả
ngược, nó làm đảo lộn tất cả. Chính cuộc gặp gỡ với Thị Nở chứ không
phải một biến cố xã hội nào đã làm thay đổi toàn bộ cuộc đời Chí Phèo và
quyết định số phận của cả Chí Phèo lẫn Bá Kiến.
Chút
tình cảm tưởng chừng rất vu vơ giữa Chí Phèo và Thị Nở ấy đã tác động,
chi phối một cách sâu sắc đến quan hệ giữa Chí Phèo và Bá Kiến. Từ đó có
thể thấy không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao đã xây dựng nhân vật Chí Phèo
bắt đầu từ buổi tối trước khi gặp Thị Nở, cái buổi tối mà hắn “vừa đi vừa chửi”,
để rồi từ đó mối quan hệ dây mơ rễ má với Bá Kiến, những khúc, đoạn
trong cuộc đời Chí Phèo như một cuốn phim quay chậm được tái hiện. Tất
cả những chi tiết này có tính chất như một đường truyền, một lời đề dẫn
hay như những hoạ tiết có tính chất phông nền để làm nổi bật tác động
của tình yêu, tình người đến cuộc đời Chí qua nhân vật Thị Nở.
Một trong những đặc trưng phong cách của Nam Cao là sử dụng những
yếu tố trái khoáy, ngược nhau để mô tả hiện thực. Tên của tác phẩm cũng
thường hàm chứa một điều trái khoáy như Lang rận, Chí Phèo, Tình già... Bản thân sự tồn tại nhếch nhác của nhân vật Lang rận
cùng với vẻ bề ngoài bẩn thỉu là một sự trái ngược, mâu thuẫn với nghề
nghiệp, vị thế xã hội mà nhân vật mang vác. Tất cả những đối nghịch đó
được thâu tóm trong một cái tên: Lang rận, và được khắc sâu hơn
trong sự tương phản giữa vẻ bên ngoài nhếch nhác, thấp kém với đời sống
tâm hồn cao đẹp. Hay trong truyện Nửa đêm, người cha có tên là Thiên Lôi nhưng lại đặt tên con là Đức - như hai mặt của một quá trình biện chứng nhân quả...v.v.
Từ những chi tiết đó có thể hiểu tại sao Nam Cao lại lạ hoá câu
chuyện tình Chí Phèo - Thị Nở như vậy. Không lãng mạn thơ mộng như các
câu chuyện tình của Tự Lực Văn Đoàn, buổi tối gặp gỡ giữa Chí Phèo và
Thị Nở bắt đầu bằng hình ảnh Chí Phèo “vừa đi vừa chửi... chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo”, cuộc đời hắn chìm trong những cơn say.
Chưa bao giờ hắn tỉnh táo để “nhớ rằng hắn có ở đời”.
Tức trong hắn chỉ tồn tại không phải ý thức mà là một khối u u mê mê,
tối tăm đặc quánh, vô cảm, vô thức. Ngay cả sự hiện hữu của bản thân,
hắn cũng không nhận thức được, hắn chỉ kinh ngạc rồi cười ngặt nghẽo,
cười rũ rượi khi phát hiện ra mình dưới dạng một cái bóng trên đường
trăng nhễ nhại, méo mó, xệch xạc. Chính hình ảnh này hướng đến sự ẩn dụ
về một dạng tồn tại bất toàn của con người trong xã hội cũ. Con người
không được sống thực là chính mình mà chỉ là những cái bóng, nhưng cũng
không được là cái bóng của chính mình mà là bóng của giai cấp thống trị
nên thành “cái vật xệch xạc, một cái gì đen và méo mó trên đường trăng nhễ nhại”.
Với cái bóng đó, với ý thức hiện hữu về sự méo mó của chính mình, Chí
Phèo đến với Thị Nở. Đó là cuộc gặp gỡ tất yếu là hệ quả từ hai cuộc đời
trống rỗng và bất toàn của hai con người.
Thị Nở trước khi gặp Chí Phèo vốn chỉ là một thực thể không có
đường nét cá tính gì đặc biệt mà còn khùng khùng dại dại, còn dung nhan
là những đường nét tự nhiên, thô mộc đến mức dị hợm: trên một khuôn mặt
ngắn ngủn, có cái mũi “vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành” và một đôi môi “cũng cố to cho không thua cái mũi” hơn nữa, lại dày và có “màu thịt trâu xám ngoách”. Toàn bộ “nhan sắc” của Thị Nở được Nam Cao tóm lại trong một nhận xét là “xấu đến ma chê quỷ hờn”.
Từ hai cuộc đời, hai thân phận khiếm khuyết, hai trí tuệ mông muội tăm
tối của Chí Phèo - Thị Nở, Nam Cao đã để cho họ kết hợp lại như một sự
liên kết hoàn hảo để tạo ra một con người mới thống nhất trong sự bừng
nở trở lại của một trí tuệ minh triết. Đó là Chí Phèo sau khi gặp Thị
Nở.
Với Nam Cao, tình yêu không đi liền với sự lý tưởng hoá đối
tượng, với sự hâm mộ sùng bái người yêu mà bắt đầu chỉ thuần tuý là bản
năng. Ánh trăng trong mắt của Chí Phèo đêm gặp Thị Nở mang đầy màu sắc
nhục thể, cứ “xanh rời rợi như là ướt nước”. Cây dâu tây gần bờ sông thì “thân mềm oặt”, những tàu chuối trong vườn nhà hắn thì “nằm ngửa, ưỡn cong cong lên” thỉnh thoảng lại “giẫy lên đành đạch như là hứng tình”.
Cái bóng - dấu ấn về sự hiện hữu méo mó của bản thân Chí Phèo cũng được
phát hiện trong lúc này. Hành động chiếm đoạt Thị Nở của Chí Phèo lúc
đầu chỉ thuần tuý là bản năng nhưng chính trong cõi âm u của bản năng ấy
một ánh loé diệu kỳ đã bùng dậy hé mở cho ta nhìn thấy bản thể tốt đẹp
của con người.
Nam Cao đã vượt trước những nhà văn của thời đại ông ở chỗ không
dừng lại ở những tình yêu lý tưởng thuần tuý tinh thần như của Loan và
Dũng trong Đoạn Tuyệt (Khái Hưng), Lan và Ngọc trong Hồn bướm mơ tiên (Khái Hưng), Thanh và Ngọc trong Dòng sông Thanh Thuỷ
(Nhất Linh), mà ông đã hợp nhất tình yêu trong sự hoà hợp tinh thần và
thể xác. Đó là những chi tiết làm căn cứ để khẳng định đây là tình yêu
chứ không thuần tuý là bản năng khi Nam Cao tiếp tục miêu tả thêm lúc
Chí Phèo đau bụng và ói mửa, được Thị Nở dìu về lều... Hành động ban đầu
là bản năng đã làm sống dậy tình yêu, sống dậy phần nhân tính tưởng
không có hay đã chết trong con người của cả Chí Phèo lẫn Thị Nở. Ở đây
có sự tái sinh, phục sinh của tinh thần nhờ tình yêu và sự gắn kết hai
thân xác. Nó đã cải hóa, tái sinh Chí Phèo, tình yêu cho Chí Phèo và Thị
Nở ý thức về chính mình.
Trước đây, họ chỉ là hai khối mông muội, Chí Phèo thì hung bạo và triền miên trong vô thức và những cơn say vô tận: “Ăn
trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch
mặt chửi bới dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say để rồi say
nữa, say vô tận”. Vậy nhưng trong tình cảm với Thị Nở, Chí Phèo đã
tìm thấy chính mình, khám phá ra chính mình, hơn thế nữa khám phá ra sự
sống. Con người ý thức, con người cảm xúc của Chí Phèo sống dậy. Lần đầu
tiên hắn tỉnh hẳn rượu, đó là cái tỉnh của ý thức.
Tại sao Chí Phèo “càng uống lại càng tỉnh ra?”.
Bởi vì tình yêu của hắn và Thị Nở đã làm thay đổi tâm điểm cuộc sống
của hắn. Tâm điểm đó đã trượt từ cõi u minh của vô thức những ngày trước
đây về với cõi thực tại, bắt Chí Phèo thừa nhận một thực tại cuộc sống
đang tồn tại dù có hay không có hắn. Nó định vị tâm điểm cuộc sống của
Chí Phèo từ những cơn say nghiêng ngả vào một cuộc sống bình thường.
Chính vì vậy mà hắn tỉnh, hắn đã nhìn thấy chính bản thân mình. Thấy “bâng khuâng” rồi “lòng mơ hồ buồn”rồi “nghĩ vẩn vơ”… Thị Nở cũng thế, lần đầu tiên Thị lắng nghe cảm xúc của tâm hồn mình để “trằn trọc” “nghĩ ngợi” “tưởng tượng bâng quơ” .v.v..
Những giới hạn của cuộc đời Chí Phèo như đã được phá bỏ, nó mở
rộng, liên thông với cuộc đời bên ngoài. Chính tình yêu đã mở thông lối
về với cuộc đời của Chí Phèo, hắn cảm nhận được cuộc sống xung quanh: “Tiếng
chim hót ngoài kia vui vẻ quá, có tiếng cười nói của những người đi
chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm
nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy… Chao ôi là buồn !”.
Tình yêu cũng gia tăng thêm kích thước cho cuộc đời hắn. Trước
đây Chí Phèo vô cảm, vô tâm, không có ý thức về chính bản thân mình
nhưng nay hắn có cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Đó là quá khứ với
những kỷ niệm yêu thương đầm ấm, là mùi hương từ bát cháo hành và những
săn sóc ân cần của Thị Nở, những kỷ niệm xa xưa cũng hiện về. Hắn từng
mơ tới một viễn cảnh bình yên với chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải…
hắn còn sợ già, sợ cô độc và muốn làm hòa với mọi người, muốn làm người
lương thiện. Sự chuyển vị này là hệ quả tất yếu do tình yêu đem lại, nó
khắc họa một cách sâu sắc bản thể bất toàn và cô độc của Chí Phèo lẫn
Thị Nở trước khi yêu và được yêu. Chính tình yêu đã bù đắp khiếm khuyết
trong tâm hồn, tái sinh một cuộc đời và làm giàu có đời sống nội tâm của
nhân vật này rất nhiều.
Chính vì thức tỉnh, vì đã được khai hóa và giàu có nhờ tình yêu nên khi bị Thị Nở từ chối “và ngoay ngoáy cái mông đít ra về”,
Chí Phèo mới cảm thấy tuyệt vọng và đau khổ. Sức mạnh của tình yêu đã
đưa hai nhân vật này đến một tâm điểm tuyệt đối của cuộc sống, trong khi
thực tại lại không như vậy, nó vẫn tồn tại những định kiến xã hội không
dễ buông tha cho con người nên thiên đường tình yêu, khát vọng làm
người của Chí rơi tõm vào hiện thực trần trụi và vỡ toang, buộc Chí Phèo
phải đối diện với hiện thực với nỗi đau khổ, tuyệt vọng để vùng lên cầm
dao giết chết Bá Kiến.
Lời chì chiết của bà cô Thị Nở như là một chi tiết “giải thiêng”
tình yêu của Chí Phèo. Nó thực tế, trần trụi đến tàn nhẫn. Đó là cái giá
mà Chí Phèo và Thị Nở phải trả để đến với nhau, những thành trì xung
quanh tình yêu ấy không dễ gì phá nên Chí Phèo tự kết liễu đời mình là
một cách chọn lựa thích hợp nhằm chối bỏ sự thỏa hiệp, quay lại cuộc
sống trước kia.
Sau những tác phẩm về tình yêu của Tự Lực Văn Đoàn của chủ nghĩa
lãng mạn thì Chí Phèo của Nam Cao là một khám phá. Bởi Nam Cao vẫn viết
về tình yêu nhưng không phải về bản thân tình yêu Chí Phèo – Thị Nở, mà
sâu xa hơn, Nam Cao muốn hướng người đọc đến những vấn đề ngoài tình
yêu. Đó là vấn đề về văn hóa, về con người và xã hội, về bản năng và vô
thức, những ý niệm về thân phận con người, sự tự do thoát khỏi những
buộc ràng của định kiến xã hội, khao khát làm người.
Chính
vì vậy tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao không mang dáng dấp của truyện
tình theo nghĩa thông thường ta vẫn hiểu, cũng không chuyển tải nội dung
tình yêu theo cách thông thường mà theo một cách rất trái khoáy, rất
nghịch dị mang dấu ấn riêng của Nam Cao. Nó làm cho hiện thực cuộc sống
không còn bị gò ép trong cái khuôn khổ thông thường, quen thuộc trong
cái nhìn của mọi người mà hiện ra một cách đột ngột bất ngờ tạo sự ngạc
nhiên trong cảm nhận.